Trong giải quyết tranh chấp dân sự, việc xác định đúng quan hệ pháp luật có ý nghĩa quyết định, bởi đó là cơ sở để áp dụng đúng quy phạm pháp luật điều chỉnh, bảo đảm tính hợp pháp, tính có căn cứ và công bằng của bản án. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy một số Tòa án đã xác định sai bản chất quan hệ pháp luật khi các bên ký hợp đồng cầm cố tài sản nhưng thực chất lại có thỏa thuận vay tiền và khi tranh chấp nguyên đơn chỉ yêu cầu buộc trả nợ gốc, lãi theo hợp đồng cầm cố mà không yêu cầu những nội dung liên quan đến tài sản cầm cố. Thay vì xác định đây là tranh chấp hợp đồng vay tài sản có bảo đảm bằng cầm cố, một số Tòa án lại xác định là tranh chấp hợp đồng cầm cố rồi áp dụng Điều 309 và các điều luật liên quan của Bộ luật Dân sự (BLDS) để buộc trả nợ. Sai sót này không chỉ làm sai lệch bản chất quan hệ nghĩa vụ mà còn dẫn đến việc viện dẫn căn cứ pháp lý thiếu chuẩn xác, ảnh hưởng đến tính thống nhất của hệ thống tư pháp.
Xác định quan hệ tranh chấp dựa vào nội dung thỏa thuận
Điều 117 BLDS 2015 quy định: Giao dịch dân sự có hiệu lực khi chủ thể có năng lực, hoàn toàn tự nguyện và mục đích, nội dung không vi phạm điều cấm, không trái đạo đức xã hội. Bản chất giao dịch vì vậy được quyết định bởi nội dung quyền, nghĩa vụ mà các bên thỏa thuận, không phải tên gọi văn bản.
Do đó, việc xác định quan hệ tranh chấp phải căn cứ vào nội dung thỏa thuận (có giao – nhận tiền, có thoả thuận lãi, có nghĩa vụ hoàn trả), chứ không phải tên hợp đồng là “cầm cố” hay “vay”.
Phân biệt quan hệ vay tài sản và quan hệ cầm cố tài sản
Hợp đồng vay tài sản: Từ Điều 463 đến Điều 471 BLDS quy định bên vay nhận tài sản từ bên cho vay, đến hạn phải hoàn trả, nghĩa vụ trả nợ gốc Điều 466 và lãi Điều 468 là nghĩa vụ trung tâm.
Cầm cố tài sản: Từ Điều 309 đến Điều 316 BLDS chỉ điều chỉnh việc giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho bên kia để bảo đảm nghĩa vụ, không làm phát sinh nghĩa vụ trả tiền.
Như vậy, trong hợp đồng cầm cố có kèm thỏa thuận giao - nhận tiền, quan hệ chính phải được xác định là vay tài sản còn cầm cố chỉ là biện pháp bảo đảm nghĩa vụ vay.
Án lệ số 11/2017/AL về cách xác định quan hệ tranh chấp:
Án lệ số 11/2017/AL của Hội đồng Thẩm phán TANDTC về “Xác định giao dịch dân sự vô hiệu do giả cách” đã nêu rõ: Các bên ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất để che giấu việc vay tiền. Hội đồng Thẩm phán khẳng định bản chất là vay tài sản, hợp đồng chuyển nhượng chỉ là giả cách, nên áp dụng quy định về vay tài sản để giải quyết. Như vậy, Án lệ khẳng định nguyên tắc cốt lõi là phải xác định bản chất giao dịch dựa vào quyền và nghĩa vụ thực tế, không căn cứ vào tên gọi của hợp đồng. Điều này tương tự các vụ án cầm cố kèm vay tiền, khi nội dung có thỏa thuận vay, thì phải xác định là quan hệ vay tài sản, cầm cố chỉ là biện pháp bảo đảm.
Thực tiễn từ một số bản án đã xác định yêu cầu trả nợ là tranh chấp hợp đồng cầm cố:
Ví dụ 1: Bản án số: 10/2021/DS-ST ngày: 29/4/2021 của TAND thành phố H, tỉnh K về việc: “Tranh chấp hợp đồng cầm cố tài sản”
ND: Ngày 30/5/2019, ông Trần Văn C , H đến Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên QK ký kết hợp đồng cầm cố tài sản để vay số tiền 60.000.000 đồng, lãi suất 1,26%/tháng, thời hạn cầm cố 06 tháng, tài sản cầm cố là 01 chiếc xe môtô. Trong quá trình thực hiện hợp đồng ông C, bà H đã thanh toán cho Công ty tiền gốc 13.332.000 đồng và tiền lãi 1.008.000 đồng, còn nợ lại tiền gốc 46.668.000 đồng và tiền lãi 3.528.000 đồng thì không thanh toán. NĐ yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền 50.196.000 đồng. Đối với các tài sản cầm cố trên Công ty đã trả lại để làm phương tiện đi lại.
Toà án nhận định về quan hệ tranh chấp: Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, vụ án có quan hệ pháp luật tranh chấp hợp đồng cầm cố tài sản. Áp dụng Điều 309, 310, 312, 313, 314 BLDS tuyên xử: Buộc bị đơn thanh toán cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên QK số tiền 50.196.000 đồng, trong đó tiền gốc 46.668.000 đồng và tiền lãi 3.528.000 đồng.
Ví dụ 2: Bản án số 01/2025 ngày 15/8/2025 của Toà án khu vực X, tỉnh T
ND: Ngày 04/9/2024, anh Nguyễn Hữu Đ ký hợp đồng cầm cố tài sản với Công ty cổ phần tiền Có Ngay để vay số tiền 23.031.914 đồng, thời hạn cầm cố 06 tháng (từ ngày 04/9/2024 đến ngày 04/3/2025), lãi suất 1,1%/tháng. Tài sản cầm cố là 01 xe mô tô hiệu Honda. Sau khi ký hợp đồng, Công ty đã giải ngân đầy đủ số tiền cho anh Đ. Do nhu cầu đi lại, anh Đ đã ký giấy mượn lại chiếc xe đã cầm cố trong thời hạn từ 04/9/2024 đến 04/3/2025. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, anh Đ không trả lãi định kỳ như đã cam kết, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu buộc anh bị đơn phải thanh toán tổng số tiền 32.600.000 đồng, gồm: Tiền gốc: 23.031.914 đồng; Lãi trong hạn: 1.520.106 đồng (1,1%/tháng); Phí quản lý hồ sơ: 690.957 đồng (0,5%/tháng); Phí bảo dưỡng và hao mòn xe khi mượn: 6.636.271 đồng (5,4%/tháng). Tại phiên toà nguyên đơn chỉ yêu cầu trả tiền gốc, rút các yêu cầu về lãi, phí. Tòa án xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp hợp đồng cầm cố” và áp dụng các Điều 117, 166, 309, 310, 312, 313, 314 BLDS để tuyên xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn trả cho nguyên đơn số tiền 23.031.914 đồng và lãi suất, phí từ sau ngày xét xử đến khi thanh toán xong. Như vậy, 02 bản án được nêu ở ví dụ đều có sai lầm trong việc đồng nhất tên hợp đồng “cầm cố” với quan hệ pháp luật tranh chấp (tên hợp đồng cầm cố nên xác định quan hệ tranh chấp là hợp đồng cầm cố).
Các hợp đồng cầm cố đều có nội dung thỏa thuận vay - trả tiền gốc, lãi thì phải là quan hệ vay tài sản, giao tài sản chỉ là bảo đảm nghĩa vụ vay. Việc tuyên buộc trả gốc và lãi phải áp dụng Điều 466, 468 BLDS, nếu có yêu cầu xử lý tài sản cầm cố thì mới áp dụng Điều 309 đến 316 BLDS. Hoàn toàn không thể áp dụng Điều 309 BLDS để buộc trả nợ, vì vượt phạm vi điều chỉnh của chế định cầm cố tài sản.
Việc giải quyết các vụ án mà các bên giao kết “Hợp đồng cầm cố” nhưng thực chất có thỏa thuận giao nhận tiền và yêu cầu thực hiện nghĩa vụ hoàn trả cả gốc, lãi cần được xác định đúng bản chất là quan hệ vay tài sản. Cầm cố chỉ là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, nó không phải là một giao dịch dân sự độc lập. Thực tiễn xét xử, một số Tòa án vẫn xác định quan hệ tranh chấp là “Hợp đồng cầm cố” và áp dụng các quy định về cầm cố từ Điều 309 đến Điều 316 BLDS để buộc bên nhận tiền hoàn trả gốc và lãi. Cách giải quyết này là chưa chính xác về mặt pháp lý, bởi:
Thứ nhất: Quan hệ vay tài sản được điều chỉnh bởi Điều 463, 466, 468 BLDS 2015. Đây mới là căn cứ pháp lý cho việc buộc bên vay phải trả nợ gốc và lãi. Cầm cố chỉ điều chỉnh quyền, nghĩa vụ liên quan đến tài sản cầm cố như: quyền giữ, bảo quản, xử lý tài sản cầm cố,…vv, không thể làm cơ sở pháp lý để tuyên buộc trả nợ.
Thứ hai: Về nguyên tắc giải quyết tranh chấp BLTTDS 2015 quy định việc xác định quan hệ tranh chấp phải căn cứ vào nội dung yêu cầu và thỏa thuận của các bên, không căn cứ vào tên gọi hợp đồng.
Thứ ba: Về hậu quả pháp lý nếu áp dụng quy định về cầm cố để tuyên trả nợ, bản án vừa sai quan hệ pháp luật, vừa sai căn cứ pháp luật, vừa có nguy cơ tạo tiền lệ cho việc “hợp pháp hóa” những hợp đồng cầm cố trá hình, làm giảm tính chuẩn mực trong áp dụng pháp luật dân sự.
Việc xác định sai quan hệ pháp luật trong các vụ án liên quan đến hợp đồng cầm cố kèm vay tiền dẫn đến áp dụng sai quy định, làm sai lệch bản chất giao dịch. Nguyên tắc căn bản của BLDS và BLTTDS đòi hỏi Tòa án phải dựa vào nội dung quyền và nghĩa vụ thực chất, không lệ thuộc vào tên gọi hợp đồng. Chỉ khi xác định đúng là quan hệ vay tài sản có bảo đảm, bản án mới bảo đảm tính hợp pháp, bảo vệ công bằng cho đương sự và góp phần củng cố sự thống nhất trong áp dụng pháp luật./.