Đang truy cập: 640
Hôm nay: 669
Trong tháng: 90,256
Tổng lượt truy cập: 1,641,611
Xuất phát từ nguyên tắc chung của pháp luật dân sự là tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi hợp pháp của các cá nhân, tổ chức;khi các quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chứcbị xâm phạm, gây thiệt hại thì người vi phạm, gây thiệt hại phải chụi trách nhiệm dân sự và biểu hiện của trách nhiệm dân sự cụ thể đó là việc bồi thường thiệt hại. Chính vì vậy, bên cạnh những quy định mang tính nguyên tắc chung về trách nhiệm dân sự (bồi thường thiệt hại) do hành vi trái pháp luật gây ra, pháp luật dân sự Việt Nam còn có những quy định có tính chất riêng biệt đối với trách nhiệm dân sự (bồi thường) do tài sản gây ra, trong đó có bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được quy định tạiĐiều 623 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005 và được hướng dẫn thi hành tại Nghị quyết số 03/2006/NQ – HĐTP ngày 8 tháng 7 năm 2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành BLDS năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trong đó có hướng dẫn về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (sau đây gọi là Nghị quyết 03/2006). Tuy nhiên, việc hiểu thế nào về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra và thực tiễn áp dụng vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau, dẫn đến việc áp dụng pháp luật thiếu thống nhất đối với một số Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư và các nhà nghiên cứu. Vì vậy, bài viết này tập trung phân tích một số vấn đề lý luận về các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra và thực tiễn áp dụng để nhìn nhận quy định của pháp luật về về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
I.MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ GÂY RA.
Điều 623 BLDS năm 2005 quy định:
“1. Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.
Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật.
2. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
3. Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại c khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây:
a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
4. Trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại.
Khi chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại”.
1.Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ.
Sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật đã mang lại sự phát triển ngày càng nhanh, đa dạng và phong phú các phương tiện cơ giới, thiết bị máy móc…hiện đại hơn phục vụ nhu cầu sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt của con người. Cùng với sự phát triển, gia tăng các phương tiện, thiết bị cơ giới, máy móc, thực tế cho thấy nó cũng kéo theo sự gia tăng các tai nạn mang tính khách quan nhiều khi nằm ngoài sự chi phối, điều khiển của con người, đe dọa tới sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản… của các chủ thể trong xã hội. Có những sự vật như máy móc, phương tiện, hệ thống điện, dây chuyền sản xuất trong nhà máy… bản thân hoạt động của nó luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại cho môi trường xung quanh. Mặc dù con người luôn tìm mọi cách kiểm soát, vận hành nó một cách an toàn nhưng vẫn có những thiệt hại khách quan bất ngờ có thể xảy ra nằm ngoài sự kiểm soát đó. Trong khoa học pháp lý gọi những sự vật đó là “nguồn nguy hiểm cao độ”.
Khoản 1 Điều 623 BLDS năm 2005 đưa ra một định mang tính liệt kê: “Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định”. Theo quy định này, các đối tượng được coi là nguồn nguy hiểm cao độ là những vật, máy móc, phương tiện…, động vật (thú dữ) đang tồn tại mà hoạt động vận hành, sản xuất, vận chuyển, bảo quản… chúng có tiềm ẩn những nguy cơ gây ra thiệt hại bất ngờ đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản cho những người xung quanh mà không phải bao giờ con người cũng có thể lường trước và có thể ngăn chặn (không kiểm soát được nguy cơ gây thiệt hại). Chính vì vậy mà việc vận hành, sử dụng, vận chuyển, bảo quản, trông giữ đối tượng là nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ đúng những quy định của pháp luật.
Để xác định nguồn nguy hiểm cao độ cần phải căn cứ vào khoản 1 Điều 623 BLDS và văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan hoặc quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về lĩnh vực cụ thể đó. Ví dụ: Để xác định phương tiện giao thông cơ giới đường bộ thì phải căn cứ vào Luật giao thông đường bộ.(1) Theo quy định tại Điều 3 Luật Giao thông đường bộ năm 2008, thì phương tiện giao thông cơ giới đường bộ gồm: xe ô tô; máy kéo; rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo; xe mô tô hai bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự…
Nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại phải được hiểu là chính sự hoạt động tự thân (tự tại) của nó gây ra, mà không có sự tác động bởi hành vi có lỗi của con người. Ví dự: Xe ô tô đang vận hành thì bị chết máy, nổ lốp, mất phanh, gãy trục, gãy cầu...đã gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản cho người khác. Sự kiện gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ theo cơ chế “tự gây thiệt hại”, hoàn toàn không có sự tác động của con người.
2. Các điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Là một loại trách nhiệm dân sự (bồi thường thiệt hại) ngoài hợp đồng nên điều kiện làm phát sinh của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng mang những đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung. Tuy nhiên trách nhiệm dân sự do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, nguyên nhân gây ra thiệt hại không phải là do hành vi của con người mà là do hoạt động tự thân (tự tại) của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra nên điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thịêt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra còn có những yếu tố đặc thù và những đặc thù đó là điểm khác nhau so với bồi thường thiệt hại do hành vi con người gây ra.
Nếu như các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi con người gây ra nói riêng bao gồm có 4 điều kiện là: (1) Có thiệt hại xảy ra; (2) Có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại; (3) Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra; (4) Có lỗi của người gây thiệt hại thì các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ cần ba điều kiện: (1)Có thiệt hại thực tế xảy ra;(2) Có sự kiện nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại trái pháp luật;(3) Có mối quan hệ nhân quả giữa sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật và thiệt hại thực tế đã xảy ra.
Như vậy, điều kiện về lỗi không đặt ra đối với trách nhiệm dân sự do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; đây là điểm khác biệt cơ bản nhất giữa trách nhiệm dân sự do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra so với trách nhiệm dân sự do hành vi của con người gây ra. Trong từng điều kiện cụ thể của trách nhiệm dân sự do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng có những điểm khác biệt với trách nhiệm dân sự do hành vi con người gây ra, cụ thể:
2.1. Có thiệt hại xảy ra.
Cũng giống như trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong những trường hợp đặc biệt nói riêng, thiệt hại được coi là điều kiện tiền đề, điều kiện cơ sở để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Nếu không có thiệt hại thì không bao giờ phát sinh trách nhiệm bồi thường.
Thiệt hại theo khái niệm chung nhất được hiểu là sự giảm bớt những lợi ích vật chất của cá nhân, tổ chức về tính mạng, sức khoẻ, tài sản, uy tín, danh dự, nhân phẩm… được xác định được trên thực tế và những thiệt hại gián tiếp chắc chắn xảy ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ áp dụng khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại “cho người khác” hay có thể gọi là “người xung quanh”. “Người khác” (hay “người xung quanh”) được hiểu là những người khi xảy ra thiệt hại, không phải là chủ sở hữu, người được chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản. Nếu tài sản gây thiệt hại cho chủ sở hữu, họ phải tự chịu mọi rủi ro đối với thiệt hại do tài sản của mình gây ra. Trường hợp tài sản gây thiệt hại cho người chiếm hữu, sử dụng tài sản theo nghĩa vụ lao động, người chiếm hữu, sử dụng bị thiệt hại có thể được hưởng bồi thường theo chế độ bảo hiểm tai nạn lao động. Nếu thiệt hại gây ra cho người được chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng theo hợp đồng, việc có làm phát sinh trách nhiệm bồi thường hay không còn phụ thuộc vào thỏa thuận của các bên cũng như các quy định khác của pháp luật.
Cách xác định thiệt hại vẫn căn cứ vào các quy định chung của Bộ luật dân sự về trách nhiệm bồi thường (từ Điều 608 đến Điều 610 BLDS). Tuy nhiên, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra có những yếu tố khác với thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra. Do tính chất của loại trách nhiệm này là thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra nên thiệt hại chỉ bao gồm thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe. Riêng thiệt hại về danh dự, uy tín, nhân phẩm không thuộc phạm vi tác động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ. Tuy nhiên, cũng có thể có những trường hợp gây thiệt hại về tinh thần cho những người xung quanh. Đây là điểm khác biệt so với thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường do hành vi của con người gây ra (bao gồm cả tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín).
Chúng ta cần phân biệt thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra với thiệt hại do hành vi trái pháp luật của con người gây ra có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ. Thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là thiệt hại do “tự thân” nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (ví dụ: xe ô tô đang vận hành thì bị nổ lốp, mất phanh…gây thiệt hại cho người tham gia giao thông…; còn thiệt hại có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ là thiệt hại do hành vi trái pháp luật của con người khi gây thiệt hại nhưng liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ, ví dụ: lái xe phóng nhanh vượt ẩu, điều khiển phương tiện tham gia giao thông đi không đúng phần đường dẫn đến tai nạn gây thiệt hại cho người khác.
2.2. Có sự kiện nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại trái phápluật.
Như đã phân tích ở trên, nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại phải được hiểu là chính sự hoạt động tự thân (tự tại) của nó gây ra, mà không có sự tác động bởi hành vi có lỗi của con người. Sự kiện gây thiệt hại của của nguồn nguy hiểm cao độ theo cơ chế “tự gây thiệt hại”, hoàn toàn không có sự tác động của con người.
Nếu như hành vi gây thiệt hại trái pháp luật của con người là nguyên nhân phổ biến làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ được áp dụng khi thiệt hại do sự tác động tự thân của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Trong thực tiễn, không phải mọi thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra đều có sự tác động của con người. Nhiều trường hợp, sự kiện gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ nằm ngoài sự kiểm soát, chế ngự của con người và tự thân tài sản (nguồn nguy hiểm cao dộ) có thể gây thiệt hại. Việc xác định thiệt hại là do tác động của người hay tác động của vật, thú dữ có ý nghĩa vô cùng quan trọng khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, là điểm mấu chốt để phân định ranh giới giữa hai loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại: do hành vi của con người gây ra và do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Những trường hợp thiệt hại có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ nhưng do tác động của con người, do hành vi của con người gây ra thì sẽ không áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra mà sẽ chỉ áp dụng nguyên tắc chung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Một điểm cần lưu ý là sự kiện gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ có tính trái pháp luật. Pháp luật hiện hành mới chỉ có quy định về “hành vi trái pháp luật” của con người mà chưa có quy định về tính trái pháp luật khi tài sản nói chung và nguồn nguy hiểm cao độ nói riêng gây thiệt hại. Theo tinh thần của pháp luật nói chung và Bộ luật dân sự nói riêng, mọi công dân đều có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, tài sản . Vì vậy, về nguyên tắc, việc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác (không thuộc các trường hợp pháp luật cho phép) bị coi là trái pháp luật. Bởi vậy, Điều 623 BLDS quy định về Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra và các điều khác quy định về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra cần phải hiểu đây là sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật, vì vậy trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải được đặt ra.
Điều 623 Bộ luật dân sự quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ được loại trừ trong trường hợp “thiệt hại do lỗi cố ý của người bị thiệt hại”. Quy định như vậy được hiểu là nếu thiệt hại hoàn toàn do lỗi vô ý của người bị thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ vẫn phát sinh (sẽ được phân tích ở phần sau).
Thiệt hại xảy ra có thể do sự kiện bất khả kháng.Sự kiện bất khả kháng là những sự kiện xảy ra hoàn toàn mang tính khách quan mà các chủ thể liên quan không thể tiên liệu được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong điều kiện, khả năng cho phép-đây là trường hợp loại trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Nói tóm lại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là trách nhiệm đối với sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ chứ không phải thiệt hại do hành vi của con người.
2.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa sự tác động “tự thân” gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ với thiệt hại xảy ra.
Như đã phân tích ở trên, có thiệt hại xảy ra cơ sở phát sinh trách nhiệm bồi thường, tuy nhiên để có thể phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thì thiệt hại xảy ra phải trực tiếp do bản thân nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại. Nếu thiệt hại do hành vi trái pháp luật của con người gây ra mà có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ thì không áp dụng Điều 623 để giải quyết mà đây là trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thông thường do hành vi trái pháp luật của con người gây ra.
Khi có thiệt hại xảy ra và xác định trách nhiệm thuộc về ai, cần xem xét thiệt hại đó do nguyên nhân nào gây ra? Nguyên nhân đó do đâu mà có? Nếu không xác định chính xác mối quan hệ nhân quả thì sẽ dẫn đến những sai lầm khi xác định trách nhiệm bồi thường. Đối với thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, điều kiện này đòi hỏi thiệt hại xảy ra là do sự tác động của nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại, chứ không phải do hành vi của con người. Xe ô tô tự dưng nổ lốp gây tai nạn là nguyên nhân gây thiệt hại sẽ khác với trường hợp người lái xe phóng nhanh, vượt ẩu là nguyên nhân (hành vi của con người) gây tai nạn... Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ được áp dụng khi thiệt hại là kết quả củasự tác động tự thân của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Hay nói cách khác, hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ là nguyên nhân tất yếu, nguyên nhân có ý nghĩa quyết định dẫn đến thiệt hại và thiệt hại xảy ra là kết quả của hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ.
Sự khác nhau trong mối quan hệ nhân quả giữa bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra so với bồi thường thiệt hại do hành vi của con người gây ra thể hiện ở chỗ: Nếu trong bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, sự tác động tự thân của nguồn nguy hiểm cao độ là nguyên nhân gây thiệt hại (kết quả); thì trong bồi thường thiệt hại do hành vi con người gây ra, hành vi trái pháp luật của con người là nguyên nhân gây thiệt hại (kết quả).
* Về vấn đề lỗi.
Về nguyên tắc, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ cần thoả mãn các điều kiện trên đây. Điều kiện về lỗi không có ý nghĩa đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, thậm chí kể cả khi chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ không có lỗi vẫn phải bồi thường trừ trường hợp do pháp luật qui định (Khoản 3, Điều 623 BLDS).
Nếu như trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung, trong đó có bồi thường tiệt hại do hành vi con người gây ra, lỗi là một trong bốn điều kiện bắt buộc, thì bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một trong những trường hợp đặc biệt, theo đó, trách nhiệm bồi thường phát sinh không cần xem xét đến điều kiện lỗi. Khoản 3 Điều 623 Bộ luật dân sự quy định “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi”. Bởi vậy, nên nói rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là loại trách nhiệm đặc biệt.
Căn cứ vào các quy định của BLDS, từ Điều 623 đến Điều 627, chúng ta có thể thấy duy nhất hai điều luật quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại không xem xét đến điều kiện lỗi. Khoản 3 Điều 623 quy định: “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi”; Điều 624 quy định: “Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật, kể cả trường hợp người gây ô nhiễm môi trường không có lỗi”. Các điều luật còn lại không quy định vấn đề loại trừ yếu tố lỗi, được hiểu là vẫn áp dụng bốn điều kiện bồi thường thiệt hại nói chung, trong đó có điều kiện về lỗi.
Điều 623 Bộ luật dân sự quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ được loại trừ trong trường hợp “thiệt hại do lỗi cố ý của người bị thiệt hại”. Quy định như vậy được hiểu là nếu thiệt hại hoàn toàn do lỗi vô ý của người bị thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ vẫn phát sinh.
Một điểm quan trọng cần lưu ý là lỗi của chủ sở hữu, người chiếm hữu trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản (trong đó có nguồn nguy hiểm cao độ) gây ra chỉ có thể là lỗi vô ý. Chủ thể này đã không nhìn thấy trước nguy cơ tài sản có thể gây thiệt hại - điều mà những người chu đáo, cẩn thận sẽ nhận thấy được trong hoàn cảnh tương tự. Thiệt hại phát sinh khi chủ sở hữu, người quản lý tài sản đã không thực hiện sự quan tâm, chu đáo cần thiết khi thực hiện nghĩa vụ quản lý tài sản.
Nếu như các trường hợp bồi thường thiệt hại thông thường dựa trên sự suy đoán lỗi thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra dựa trên sự suy đoán trách nhiệm đối với người có nghĩa vụ quản lý nguồn nguy hiểm cao độ. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ được áp dụng khi hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ nằm ngoài khả năng kiểm soát, điều khiển của người chiếm hữu, vận hành và là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thiệt hại. Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của con người trong việc trông giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ thì không áp dụng trách nhiệm này mà sẽ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra không loại trừ khả năng thiệt hại cũng có thể có một phần lỗi của người quản lý, trông giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ nhưng hành vi của người trông giữ, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ không phải nguyên nhân có tính quyết định đến thiệt hại. Chủ sở hữu, người đang chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ không được miễn trừ trách nhiệm bồi thường kể cả trong trường hợp họ chứng minh được mình không có lỗi trong việc trông giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ. Bởi lẽ yếu tố lỗi không phải là một điều kiện tiên quyết làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Dấu hiệu quan trọng nhất để xác định trách nhiệm này là hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ chính là nguyên nhân trực tiếp, là yếu tố quyết định dẫn đến thiệt hại. Hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ có thể hoàn toàn không có lỗi của con người (như xe đang chạy trên đường bất ngờ nổ lốp trước dẫn đến đổi hưởng đột ngột gây thiệt hại) hoặc cũng có thể có một phần lỗi của người quản lý, điều khiển, tuy nhiên lỗi ở đây chỉ đóng vai trò thứ yếu đối với thiệt hại (như trước khi xuống dốc, lái xe không kiểm tra lại phanh; lốp mòn nhưng chưa thay do chủ quan nghĩ rằng xe vẫn vận hành tốt…). Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi, do hành vi của người điều khiển nguồn nguy hiểm cao độ thì không áp dụng trách nhiệm này.(2)
3.Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 623 BLDS năm 2005 và mục III Nghị quyết số 03/2006, thì chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra có thể là: (1) Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ; (2) người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ; (3) người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ. Việc xác định ai trong số các chủ thể này chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể.
-Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Chủ sở hữu đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ là đang thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, quản lý nguồn nguy hiểm cao độ, nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội; khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ nguồn nguy hiểm cao độ.
- Người được chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, trừ trường hợp giữa chủ sở hữu và người được giao chiếm hữu, sử dụng có thoả thuận khác không trái pháp luật, đạo đức xã hội hoặc không nhằm trốn tránh việc bồi thường:
+ Thoả thuận cùng nhau liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại;
+Thoả thuận chủ sở hữu bồi thường thiệt hại trước, sau đó người được giao chiếm hữu, sử dụng sẽ hoàn trả cho chủ sở hữu khoản tiền đã bồi thường;
+ Ai có điều kiện về kinh tế hơn thì người đó thực hiện việc bồi thường thiệt hại trước.
Trong trường hợp chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao cho ngườikhác chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ không theo đúng quy định của pháp luật mà gây thiệt hại, thì chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại. Ví dụ:Chủ sở hữu biết người đó không có bằng lái xe ô tô, nhưng vẫn giao quyền chiếm hữu, sử dụng cho họ mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại.
- Về nguyên tắc chung chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây:
+ Thiệt hại xảy ra là hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
+Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Trong trường hợp pháp luật có quy định khác về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được thực hiện theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó.
- Người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, nếu chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp không có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật (đã tuân thủ các quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật).
Nếu chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợppháp có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật (không tuân thủ hoặc tuân thủ không đầy đủ các quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo quy định của pháp luật) thì phải liên đới cùng với người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
- Nếu chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ đã giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác mà gây thiệt hại thì phải xác định trong trường hợp cụ thể đó người được giao nguồn nguy hiểm cao độ có phải là người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ hay không để xác định ai có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Ví dụ: A là chủ sở hữu xe ô tô đã giao xe ô tô đó cho B. B lái xe ô tô tham gia giao thông đã gây ra tai nạn và gây thiệt hại thì cần phải phân biệt:
+ Nếu B chỉ được A thuê lái xe ô tô và được trả tiền công, có nghĩa B không phải là người chiếm hữu, sử dụng xe ô tô đó mà A vẫn chiếm hữu, sử dụng; do đó, A phải bồi thường thiệt hại.
+Nếu B được A giao xe ô tô thông qua hợp đồng thuê tài sản, có nghĩa A không còn chiếm hữu, sử dụng xe ô tô đó mà B là người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp; do đó, B phải bồi thường thiệt hại. Nếu trong trường hợp này được sự đồng ý của A, B giao xe ô tô cho C thông qua hợp đồng cho thuê lại tài sản, thì C là người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp xe ô tô đó; do đó, C phải bồi thường thiệt hại.(3)
II.THỰC TIỄN ÁP DỤNG ĐIỀU 623 BLDS NĂM 2005 VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ GÂY RA.
Trên thực tế, đã có sự nhầm lẫn trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra khi người áp dụng pháp luật không phân biệt được thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra và thiệt hại liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ. Không ít trường hơp cứ thấy có hành vi trái pháp luật của con người gây thiệt hại, hành vi gây thiệt hại có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ là xác định thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Hai vụ việc sau đây là những điễn hình cụ thể:
*Vụ việc thứ nhất.
Nguyễn Văn N. ký hợp đồng với Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại và dịch vụ TC (gọi tắt là Công ty TC) về việc thuê xe ôtô tự lái (loại xe 4 chỗ ngồi). Theo hợp đồng, Công ty TC cho N. thuê xe ô tô 03 ngày (từ ngày 05/4 đến 07/4/2010), giá mỗi ngày 80.000đồng. Khoảng 12 giờ ngày 06/4/2010, N. điều khiển xe ôtô lưu thông trên Quốc lộ 1A theo hướng Bắc-Nam, đến địa phận xã H, huyện HĐ, tỉnh Q, do chạy quá tốc độ, đi không đúng phần đường nên đã tông vào xe đạp do chị Lê Thị V. điều khiển đi ngược chiều gây tai nạn. Hậu quả, chị V. tử vông tại chỗ. Với hành vi trên đây, Toà án nhân dân huyện HĐ kết án N. 12 tháng tù về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo khoản 1 Điều 202 BLHS và áp dụng Điều 623 BLDS buộc Công ty TC (do anh B. làm đại diện) bồi thường cho gia đình nạn nhân V. 70 triệu đồng (Toà án xác định Công ty TC là chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ, phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị hại).
Theo chúng tôi, về trách nhiệm dân sự trong vụ án này, việc Toà án áp dụng Điều 623 BLDS năm 2005 để buộc Công ty TC bồi thường thiệt hại cho chị V. là không đúng qui định của pháp luật. Như đã phân tích ở trên về điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, để có thể áp dụng Điều 623 BLDS về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, cần xác định rõ: Thế nào là nguồn nguy hiểm cao độ ? Thiệt hại có phải do “tự thân” nguồn nguy hiểm cao độ gây ra hay không ?
Đối với vụ án trên đây, thiệt hại xảy ra là do hành vi trái pháp luật của N. Hay nói cách khác, hành vi trái pháp luật của N. (điều khiển xe ôtô chạy quá tốc độ và đi không đúng phần đường) là nguyên nhân trực tiếp, quyết định gây ra thiệt hại về tính mạng đối với chị V. Xe ôtô do N. thuê của Công ty TC là nguồn nguy hiểm cao độ, nhưng trong vụ án này xe ôtô là phương tiện liên quan đến việc gây ra thiệt hại chứ bản thân sự hoạt động tự thân của xe ôtô không gây ra thiệt hại. Mặt khác N. là người được chủ sở hữu chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ thông qua hợp đồng thuê tài sản, có nghĩa Công ty TC không còn chiếm hữu, sử dụng xe ô tô đó mà N. là người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp; do đó, N. là chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Như vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hạitrong vụ án này là trách nhiệm bồi thường thiệt hại thông thường do hành vi trái pháp luật của con ngườigây rachứ không phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường là N. chứ không phải Công ty TC; căn cứ pháp luật để áp dụng khi xác định chủ thể phải bồi thường là các Điều 604, Điều 610 của BLDS năm 2005.
*Vụ việc thứ hai:
Khoảng 16 giờ ngày 25/6/2010, sau khi uống nhiều rượu cùng bạn bè tại quán, Nguyễn Văn Đ. Điều khiển xe mô tô đi trên Quốc lộ 1A theo hướng Nam-Bắc về nhà mình ở thị trấn H., huyện V. Khi đến km 755+500, do quá say rượu, không làm chủ bản thân nên Đ. điều khiển xe chạy từ bên phải sang bên trái đường theo chiều đi của mình và tông vào xe ô tô do anh K. điều khiển (xe ô tô thuộc quyền sở hữu của K.) đi ngược chiều gây tai nạn. Hậu quả: Đ. tử vong tại chỗ.
Các cơ quan tiến hành tố tụng huyện V. xác định tai nạn xảy ra hoàn toàn do lỗi (vô ý) của Đ. nên quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Gia đình Đ khởi kiện về dân sự yêu cầu Tòa án giải quyết buộc K. bồi thường thiệt hại. Tòa án huyện V. đã áp dụng Điều 623 BLDS buộc K. bồi thường cho gia đình nạn nhân Đ. 40 triệu đồng.
Việc buộc K. phải bồi thường thiệt hại cho gia đình Đ. theo lập luận của Tòa án V. là căn cứ vào hướng dẫn tại điểm 2 mục III Nghị quyết 03/2006. Điểm 2 mục III nghị quyết này đưa ra ví dụ để hướng dẫn cho trường hợp chủ sở hữu, người chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ không phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong trường hợp: “Xe ô tô đang tham gia giao thông theo đúng quy định của pháp luật thì bất ngờ có người lao vào xe để tự tử và hậu quả là người này bị thương hoặc bị chết”. Quan điểm của Tòa án này cho rằng, ví dụ trên chỉ loại trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong trường hợp hoàn toàn do lỗi cố của người bị thiệt hại; còn trong vụ việc này lỗi của người bị thiệt hại là lỗi vô ý nên trách nhiệm bồi thường của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ vẫn đặt ra.
Theo chúng tôi, cách hiểu về Điều 623 BLDS của Tòa án V. là không đúng. Bởi lẽ cũng như đã phân tích ở trên, thiệt hại xảy ra trong vụ việc này là do hành vi trái pháp luật của con người (nạn nhân Đ.) chứ không phải do hoạt động tự thân của nguồn nguy hiểm cao độ (xe ô tô của anh K.) gây ra. Vì vậy, chỉ có thể xem xét trách nhiệm dân sự thông thường do hành vi trái pháp luật của con người gây ra, trong đó lỗi là một trong bốn điều kiện bắt buộc. Trong vụ việc này, anh K. không có lỗi đối với cái chết của nhận nhân Đ. nên không phải chịu trách nhiệm bồi thường. Việc giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng liên quan đến phương tiện tham gia giao thông ở chúng ta hiện nay theo kiểu khi tai nạn xảy ra, xe lớn phải bồi thường cho xe nhỏ là không phù hợp với pháp luật, trừ khi chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ và người bị thiệt hại có thỏa thuận.
Mặt khác, tinh thần Ví dụ mà nghị quyết 03/2006 đưa ra trên đây là nhằm chỉ để hướng dẫn loại trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra do lỗi cố ý của người bị thiệt hại. Tuy nhiên, ví dụ này còn có yếu tố chưa hợp lý vì có thể dẫn đến cách hiểu loại trừ trường hợp người bị thiệt hại cố ý lao vào xe ô tô tự tử (lỗi cố ý), thì mọi thiệt hại liên quan đến xe ô tô gây ra đều áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Cách hiểu như vậy rõ ràng là không phù hợp cả về phương diện lý luận và tinh thần luật thực định.
Qua những phân tích trên đây, có thể thấy rằng hiện nay pháp luật chưa quy định cụ thể và chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể điều kiện áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra ( khi nào thì áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung và khi nào áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra), dẫn đến có những cách hiểu và áp dụng pháp luật không thống nhất trên thực tế. Mặc dù Nghị quyết 03/2006 có hướng dẫn vấn đề này nhưng còn quá khái quát và có điểm bất hợp lý. Vì vậy, chúng tôi đề nghị, liên ngành các tư pháp trung ương cần sớm nghiên cứu và ban hành Thông tư liên tịch có tính chất chuyên đề để hướng dẫn thi hành quy định về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
(1) Điểm 1b mục III Ngghị quyết 03/2006;
(2)TS Vũ Thị Hải Yến, Trường đại học Luật Hà Nội-Chuyên đề: Bồ thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra;
(3)Điểm 2 mục III Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng;
Tác giả bài viết: Phạm Vũ Ngọc Quang - Phòng 1
- VKSND tối cao hướng dẫn lập 05 loại Hồ sơ kiểm sát
- Hướng dẫn hoạt động phát biểu của Kiểm sát viên
- Hiểu đúng về “Đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn” quy định tại khoản 2 Điều 113 Bộ luật tố tụng hình sự 2015
- Bàn về giải quyết khiếu nại Cáo trạng, quyết định truy tố của Viện kiểm sát theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
- Nhiều ý kiến khác nhau về việc giải quyết việc dân sự phát sinh khi đang giải quyết vụ án dân sự